Bánh chưng, Bánh tét - món ăn truyền thống trong Tết của người Huế

Bánh chưng, Bánh tét - món ăn truyền thống trong Tết của người Huế

Bánh chưng và bánh tét là hai món bánh truyền thống đặc trưng trong dịp Tết của người Việt Nam nói chung và người Huế nói riêng. Đặc biệt, chúng mang nét độc đáo riêng nhờ sự khéo léo, tinh tế của người Huế.

Bánh chưng Huế trong Tết Nguyên Đán mang đậm nét truyền thống và tinh thần của vùng đất cố đô. Đối với người Huế, bánh chưng không chỉ là món ăn đặc trưng mà còn chứa đựng giá trị văn hóa, tâm linh sâu sắc, thể hiện sự kính trọng tổ tiên và ý nghĩa của sự đoàn tụ, ấm no. Bánh chưng vuông tượng trưng cho đất, là biểu tượng của lòng biết ơn tổ tiên đã khai hoang, mở đất, và bảo vệ cuộc sống. Trong dịp Tết, bánh chưng thường được dâng lên bàn thờ tổ tiên như một lễ vật linh thiêng. Người Huế quan niệm rằng bánh chưng là linh hồn của ngày Tết, do đó quá trình chuẩn bị và gói bánh rất tỉ mỉ, chú trọng đến hình thức và chất lượng.

Trẻ nhỏ được người lớn chỉ dẫn những công đoạn, kỹ thuật để buộc bánh tét, bánh chưng sao cho đẹp mắt. Con gái thì lo chuẩn bị nếp, nhuỵ làm từ đậu xanh, thịt ba chỉ, lá để cho đàn ông gói. Những trẻ nhỏ cũng thích thú khi được trải nghiệm gói bánh tét, bánh chưng ngày tết.

Người Huế gói bánh chưng vuông rất khéo, sao cho lá ôm sát nhân bánh và tạo hình vuông vắn, sắc nét. Lạt buộc chặt tay nhưng không làm bánh bị nứt. Một số gia đình còn bọc thêm lớp lá chuối bên ngoài để bánh giữ được độ mềm và tăng hương vị.

Món ăn không thể thiếu trên bàn thờ gia tiên mỗi dịp Tết đến Xuân về

Ngoài bánh chưng thì Huế cũng nổi tiếng với bánh tét, mà nhất là bánh tét làng Chuồn.

“Tét” có thể là biến thể của “Tết” vì nó là loại bánh dùng để ăn trong ba ngày Tết. "Tét" cũng có thể là chữ biến thể của "toác". Khi ăn, người ta phải gỡ toác lá gói bên ngoài ra hay phải “tét” thành từng lát. Bánh tét có cùng nguyên liệu và cách nấu như bánh chưng, chỉ khác về hình dạng. Có người bảo, đó là do ảnh hưởng của văn hóa Chiêm Thành qua biểu tượng của linga, một sinh thực khí nam, yếu tố căn bản cho sự sáng tạo và trường tồn của giống nòi. Có người liên tưởng đến hành trình mở cõi khai phá vùng đất mới trong hành trình Nam tiến và đòn bánh tét dễ làm, dễ di chuyển và dễ treo rất tiện lợi trong sử dụng, đặc biệt ở những nơi ngập lụt. Đòn bánh tét hình như cũng được đội quân Tây Sơn sử dụng như một loại quân lương trong các cuộc hành quân lớn, nhất là trong cuộc chiến đánh tan 20 vạn quân Thanh mùa xuân Kỷ Dậu 1789. Còn nữa là chuyện các chúa Nguyễn đã xem bánh tét như một biểu tượng văn hóa xứ Đàng Trong.

Làng Chuồn mấy trăm năm qua nổi danh xứ Huế với truyền thống làm bánh tét. Các cụ cao niên trong làng kể rằng, xưa kia làng Chuồn có bức ruộng cửa rộng chừng 1 ha, đất phì nhiêu trồng lúa thì lúa tốt tươi, cấy nếp nếp thơm ngon, dẻo mềm. Lệnh của làng là hễ ai đấu được ruộng thì phải đong (nộp) cho làng 2 thúng nếp ngon, thơm, dẻo để làng tiến vua. Vì thế mà bánh tét làng Chuồn được nổi danh từ đó…Cụ Đoàn Rạng, 83 tuổi, gia đình cụ có 4 đời làm bánh tét ở làng, cho biết: “Bánh tét làng Chuồn nổi tiếng thơm ngon, hương vị thanh trong, ngọt ngào, vang xa như hiện nay là nhờ chất lượng nếp và kỹ thuật gói kỹ lưỡng, công phu, thể hiện tài nghệ của nghệ nhân”.

Lau lá trước khi gói bánh tét

Để tạo nên hương vị chiếc bánh tét làng Chuồn, mang dáng dấp đặc trưng vùng quê hiền hòa, thanh bình, ngọt lịm của hơi gió thổi từ phá Tam Giang. Người làm phải tuân thủ nghiêm ngặt các công đoạn: Vút nếp thật sạch, để cao cho ráo nước. Đậu xanh chà hết bọt, đãi sạch vỏ. Sử dụng đậu xanh nguyên hạt, tự tay cà lấy (không dùng đậu đã bóc vỏ bằng máy). Mỡ heo (lợn) phải luộc chín. Lá gói bánh tét làng Chuồn chỉ duy nhất sử dụng lá chuối sứ còn lành lặn, sạch sẽ, tươm tấc. Lá chuối sứ đặt mua ở Đà Nẵng. Lạt buộc bằng thân cây lồ ô mềm mại, dẻo dai. Nấu bánh phải đun sôi nước, đều lửa, chụm liên tục trong vòng 6 tiếng (xưa kia, củi nấu bánh tét là gốc cây dương cứng cáp, lâu tàng, nhiều thang). Bánh chín vớt xong phải chùi thùng thật sạch mới nấu lại đợt khác. Nếu không sạch thùng mà sử dụng nấu tiếp thì bánh sẽ bị đen, thâm tím, mất vẻ mỹ quan.

Người làng Chuồn gói bánh tét rất khéo, bánh có hình trụ dài và đều đặn. Đầu tiên, trải một lớp lá chuối, sau đó đặt một lớp nếp, tiếp đến là nhân thịt và đậu (hoặc chuối), rồi phủ thêm một lớp nếp lên trên. Bánh được cuộn tròn chặt tay, hai đầu bánh được gấp gọn và buộc chặt bằng dây lạt. Bánh gói đúng cách sẽ không bị hở nhân và khi luộc sẽ không bị nước vào.

Bánh tét làng Chuồn không chỉ là món ăn mà còn là món quà biếu truyền thống của người Huế trong dịp Tết. Với cách gói công phu, hương vị thơm ngon, bánh tét làng Chuồn luôn gợi nhớ đến sự ấm áp, thân thuộc trong những ngày đầu năm.

Ở Huế, Tết không chỉ là dịp để thưởng thức bánh chưng, bánh tét mà còn là thời gian để gia đình quây quần bên nhau, cùng gói bánh, canh lửa nồi bánh suốt đêm. Tiếng cười nói rộn rã bên bếp lửa như xua tan cái lạnh của mùa đông và mang đến sự ấm áp, yêu thương trong những ngày đầu năm.

Lê Huy Hoàng Hải

Tin liên quan

Thơm Huế
Ẩm thực dân gian
Thơm Huế

Thơm Huế, xin được gọi tên như thế để nói về một trong những nét tinh hoa là hương th...

Thanh tao mứt vỏ thanh trà
Ẩm thực dân gian
Thanh tao mứt vỏ thanh trà

Tôi nhớ lần đầu tiên mình thử món ăn này là vào Lễ hội Thanh trà Thủy Biều 2022, tôi ...

Bánh nghệ Lựu Bảo
Ẩm thực dân gian
Bánh nghệ Lựu Bảo

Lựu Bảo - làng quê bình yên nằm cách trung tâm TP. Huế khoảng 8km, thuộc phường Hương...

Thưởng thức món canh chột nưa đã đi vào thi ca ở Huế
Ẩm thực dân gian
Thưởng thức món canh chột nưa đã đi vào thi c...

Cây chột nưa, một loài cây được xem là đặc sản của khu vực dọc theo sông Bồ, thuộc xã...