HOẠT ĐỘNG CỦA QUÂN ĐỘI THỜI CHÚA NGUYỄN (Phần 2)

HOẠT ĐỘNG CỦA QUÂN ĐỘI THỜI CHÚA NGUYỄN (Phần 2)

Chiến tranh với Đàng Ngoài

Dưới thời Nguyễn Hoàng việc đụng độ với quân Lê-Trịnh chưa diễn ra [1]. Mốc đánh dấu chúa Trịnh dùng vũ lực trực tiếp với Thuận Quảng là khi chúa Nguyễn Phúc Nguyên lên nắm chính quyền. Với sự chuẩn bị mạnh mẽ về lực lượng quân đội và tiềm lực kinh tế, đủ sức đối phó với chính quyền Lê - Trịnh. Chúa Nguyễn Phúc Nguyên đã bắt đầu muốn xây dựng một cơ đồ độc lập riêng biệt với chính quyền Đàng Ngoài. Chúa Nguyễn Phúc Nguyên đã không chịu nộp thuế ba năm liên tiếp và trả lại sắc phong cho chính quyền Lê - Trịnh. Sự việc này đã được mục sư Choisy kể lại rằng: “Ông xây dựng thành lũy ở biên giới Đàng Ngoài-Đàng Trong từ chối không ra Bắc chầu vua Đàng Ngoài. Ông chúa Đàng Ngoài mượn cớ này để gây hấn chiến và tấn công ông với lực lượng quân sự mạnh hơn của ông” [2]. Với những việc làm đó của chúa Nguyễn Phúc Nguyên, làm cho chính quyền Lê - Trịnh phải dùng vũ lực để bắt Thuận Quảng phải thuần phục.

Chiến tranh Trịnh - Nguyễn kéo dài gần 50 năm (1627-1672) [3] với 7 trận đánh. Trong đó có một lần quân đội của chúa Nguyễn vượt sông Gianh đánh ra chiếm được bảy tám châu huyện ở Nghệ An, còn lại các lần khác đều do chúa Trịnh chủ động tấn công.

Đàng Trong đã tiến hành những kế sách phù hợp để chống lại quân Trịnh, trong đó việc xây dựng các thành lũy và công trình quân sự trên vùng đất “biên cương” Quảng Bình là một trong những yếu tố then chốt quyết định đến chiến cuộc giữa hai bên. 


Sông Gianh ranh giới chia cắt Đàng Trong với Đàng Ngoài

1. Trận thứ nhất (năm 1627)
Chúa Nguyễn Phúc Nguyên nhiều lần từ chối không đóng thuế cho chính quyền Lê-Trịnh, điều đó làm cho chúa Trịnh Tráng muốn tấn công để trị tội bất phục. Tháng 8 năm 1626, chúa Trịnh cử hai tướng Nguyễn Khải và Nguyễn Danh Thế lĩnh 5.000 quân thủy bộ đóng ở xã Hà Trung (huyện Kỳ Anh), chuẩn bị tấn công chúa Nguyễn. 

Sau khi bình định được quân Mạc, chúa Trịnh đã bắt đầu rảnh tay để tính đến chuyện đánh Thuận Quảng, nhưng vẫn chưa kiếm ra nguyên cớ để xuất quân. Chúa Trịnh Tráng nghĩ ra kế tiếp tục cho quan vào đòi thuế để nộp cống cho nhà Minh với 30 con voi, 30 chiếc thuyền đi biển và bắt chúa Nguyễn Phúc Nguyên phải gửi một người con ra để làm con tin. Chúa Nguyễn Phúc Nguyên một lần nữa từ chối việc nộp thuế và các yêu sách của chúa Trịnh. Khi sứ giả về bẩm báo, chúa Trịnh tức giận và họp bàn các tướng để đánh Thuận Quảng “sứ giả nghe Nam chúa nói xong vái cho trở về kinh; vào triều bẩm với Thanh Đô vương lời lẽ phúc đáp của Nam chúa. Thanh Đô vương nghe xong cả giận, vội sai các tướng vào phủ chúa hội họp để bàn việc cất quân đi đánh xứ Nam” [4]. Tháng 3 năm 1627, chúa Trịnh Tráng đưa vua Lê theo, lấy cớ đi tuần du để biết tình hình địa phương, nhưng kỳ thực là cho xuất quân áp sát bờ bắc của sông Nhật Lệ, tiến đánh Đàng Trong.


Sông Nhật Lệ

Về phía Đàng Trong, chúa Nguyễn Phúc Nguyên cử Nguyễn Phúc Vệ làm tiết chế, Văn chức Nguyễn Hữu Dật làm Giám chiến, lãnh quân bộ ra chống cự. Chúa tiếp tục sai hoàng tử thứ tư là Nguyễn Phúc Trung chỉ huy quân thủy để tiếp ứng. Quân hai bên đối lũy nhau. Tiên phong của chúa Trịnh là Lê Khuê đem kỵ quân ra cướp trận. Quân chúa Nguyễn bắn đại bác, quân chúa Trịnh sợ lui. Trong đêm, quân thủy chúa Nguyễn thừa cơ nước triều lên bắn vào dinh Nguyễn Khải, làm cho quân chúa Trịnh khiếp sợ và rối loạn. Chúa Trịnh Tráng dẫn viện binh rất mạnh tiến đánh khiến quân chúa Nguyễn bị thiệt hại rất nhiều. Quân chúa Trịnh thừa thắng tranh cướp của cải. Quân chúa Nguyễn đem tượng binh đánh chặn ngang, làm cho quân Trịnh tan vỡ, chết rất nhiều. Đồng thời Nguyễn Hữu Dật lại bàn mưu với Trương Phước Da (bấy giờ gọi là Lương quận công) sai gián điệp phao đồn rằng anh em Trịnh Gia, Trịnh Nhạc mưu nổi loạn ở Kinh đô. Chúa Trịnh Tráng nghe tin lấy làm ngờ, bèn rút quân về[5].

2. Trận thứ hai (năm 1633) 
Sau thất bại trong đợt tấn công lần trước, chúa Trịnh vẫn không chịu từ bỏ ý đồ tiến đánh Đàng Trong. Khi bị chúa Nguyễn Phúc Nguyên trả lại sắc phong, chúa Trịnh thêm căm phẫn, liên tiếp đòi chúa Nguyễn nộp thuế nhưng không được. Vì thế chúa Trịnh Tráng tiếp tục cho quân tấn công vào Đàng Trong. Tháng 3 năm 1633, chúa Trịnh Tráng thống lĩnh quân đi chinh phạt chúa Nguyễn. Trong đợt tiến công lần này, chúa Trịnh đã được sự mật báo của một người em của chúa Nguyễn Phúc Nguyên là Nguyễn Phúc Anh sẽ bắn súng làm nội ứng, nhưng khi quân chúa Trịnh đến bên bờ bắc sông Nhật Lệ không thấy tín hiệu, đành cho quân lui ra đóng đợi, gần một tuần lễ vẫn không thấy tín hiệu. Quân chúa Trịnh đợi lâu sinh ra nản chí. Lúc này, quân chúa Nguyễn do Nguyễn Mỹ Thắng và Đốc chiến Nguyễn Hữu Dật chỉ huy thúc ra đánh, làm cho quân chúa Trịnh trở tay không kịp, thiệt hại hơn quá nữa. Chúa Trịnh Tráng đành vội rút quân về và để Nguyễn Khắc Loát giữ Bắc Bố Chính.

Ảnh: Cửa biển Nhật Lệ

Trong trận đánh này đã bắt đầu xuất hiện một thành lũy đầu tiên được sử dụng để phòng vệ quân chúa Trịnh trong số các thành lũy ở đất Quảng Bình là lũy Trường Dục, xây dựng vào năm 1630.

3. Trận thứ ba (năm 1643)
Rút kinh nghiệm những lần tấn công trước, tháng 2 năm 1643 chúa Trịnh Tráng điều đi những người thân tín của mình như Trịnh Tạc, Trịnh Đệ [6] và rất nhiều tướng giỏi cùng với lực lượng hùng hậu tấn công Đàng Trong. Lúc đầu quân của chúa Trịnh chiếm thế chủ động, dành được một số thắng lợi, áp sát cửa biển Nhật Lệ. Nhưng sang đến tháng 4 cùng năm, trước sự kháng cự quyết liệt của quân đội Đàng Trong cùng với những công trình quân sự bậc thầy của Đào Duy Từ đã ngăn quân Đàng Ngoài vượt phòng tuyến Quảng Bình. Tấn công mãi không được, cộng với thời tiết nắng nóng làm cho quân Trịnh chết rất nhiều, buộc chúa Trịnh phải rút quân. 

    Ảnh: Dấu tích Lũy Trường Sa

4. Trận thứ tư (năm 1648)
Do thời tiết vào mùa xuân rất tốt nhưng sang mùa hè ở Đàng Trong trời lại nắng nóng, quân Đàng Ngoài không chịu được nên chúa Trịnh thường chọn mùa xuân để tiến quân. Với một sự chủ động luôn được đề cao, cùng với những thành lũy trên đất Quảng Bình đã làm cho cuộc tấn công của chúa Trịnh Tráng vào Đàng Trong liên tục bị thất bại.

Năm 1648, chúa Trịnh Tráng chia hai quân thủy bộ tấn công Đàng Trong. Trấn thủ Nghệ An là Tiến quận công Trịnh Đào làm Thống lãnh vượt sông Gianh, Gia quận công lãnh thủy quân tấn công vào cửa biển Nhật Lệ, hai mũi cùng tiến đánh nhằm cho quân chúa Nguyễn khó lòng chống đỡ. Tháng 2, thủy binh của chúa Trịnh tấn công vào cửa biển Nhật Lệ, làm cho Thủ tướng là Hoành Lễ (không rõ họ) thua bỏ chạy, cầu viện Nguyễn Cửu Kiều. Kiều sai Tham tướng Nguyễn Triều Văn đưa quân thủy cứu viện, nhưng vì nhút nhát nên Văn không tiến [7]. Quân chúa Trịnh liên tiếp giành thắng lợi, tiến đến bức dinh Quảng Bình, Cai đội Trương Triều Lương, Trương Triều Nghị cùng hơn 400 binh lính của chúa Nguyễn bị đánh chết. Về phía đường bộ, Trịnh Đào cố đánh để vượt dinh Bố Chính, qua lũy Trường Dục nhưng không được, do trấn thủ ở đó là Trương Phúc Phấn, cùng với con là Trương Phúc Hùng chốt giữ. 

Nghe tin cấp báo, chúa Nguyễn Phúc Lan sai Thế tử Dũng Lễ hầu Nguyễn Phúc Tần làm Tiết chế cùng với Chưởng dinh Nguyễn Phúc Lộc, Trấn thủ Cựu dinh Tống Hữu Địa và Giám chiến Nguyễn Hữu Dật lãnh bộ binh, Tham tướng Nguyễn Triều Văn lãnh thủy binh đưa quân ra cự với chúa Trịnh. Chúa Nguyễn Phúc Lan đưa đại binh đóng ở trại Toàn Thắng huyện Vũ Xương để tiếp viện. Quân của chúa Nguyễn nhân đêm sai Chưởng cơ Nguyễn Hữu Tiến đưa 100 tượng binh đánh úp, kế đến cho đại binh thúc đánh, làm cho quân chúa Trịnh phải bỏ chạy. Chúa Nguyễn bắt được quận Gia, quận Mỹ và 3 vạn quân lính của chúa Trịnh [8]. Thống lãnh Trịnh Đào đang đóng quân ở bờ Nam Bố Chính nghe tin, bỏ chạy về [9].


Ảnh: Dấu tích đầm lầy Võ Xá

5. Trận thứ năm (1655-1661) 
Cùng với quá trình chuẩn bị binh lực để đối phó lại với Đàng Ngoài, chúa Nguyễn đã có đủ thực lực để mở những cuộc tấn công ra Bắc. Năm 1653 dưới thời chúa Nguyễn Phúc Tần, sau khi cho duyệt tuyển quân ở xã An Cựu đã có ý định đánh Đàng Ngoài. Nhân lúc tướng trấn giữ Bắc Bố Chính của chúa Trịnh là Phạm Tất Đồng cho quân vượt sông Gianh để cướp bóc cho nên “chúa cả giận cho đánh miền Bắc” [10].

Đây là một kế hoạch thu phục đánh Đàng Ngoài mang tính chất quy mô, cùng với một chiến lược được chuẩn bị chu đáo. Chúa Nguyễn Phúc Tần đã cài quân do thám ở ngay cạnh phủ chúa Trịnh để theo dõi nhất cử nhất động ở Đàng Ngoài, đó là Ký lục Hồ Phạm Hữu Lễ [11], làm thầy dạy học cho các công tử của chúa Trịnh. Trước đó chúa Nguyễn cũng đã dùng gián điệp mua chuộc một số quan lại cao cấp, để kể tội Hàn Tiến có âm mưu mưu phản lại chúa Trịnh. Hàn Tiến là một  tướng có tài cầm quân đang đóng quân ở dinh Cầu bờ Bắc sông Gianh để chống lại quân Đàng Trong. Hàn Tiến là người có nhiều công lao trong việc bảo vệ “biên giới” cho chúa Trịnh ở phía Nam. Với kế đó, chúa Nguyễn đã làm cho chúa Trịnh Tráng bắt giam Hàn Tiến. Trên đường áp giải về chịu tội Hàn Tiến đã uống thuốc đọc tử vẫn. 

Chúa Nguyễn tiếp tục sử dụng đội quân gián điệp huy động một lực lượng lớn quân của các xứ ngoài Bắc, gọi là tứ trấn bao gồm Cao Bằng, Hải Dương, Sơn Tây, Sơn Nam ủng hộ nhà Lê, bất mãn với chúa Trịnh hẹn ngày khi quân chúa Nguyễn vượt sông Lam thì tất cả các trấn nổi dậy, tạo thành thế “Trong đánh ra, ngoài đánh vào, họ Trịnh tất bị diệt” [12].

Với kế hoạch thu phục Trung Đô, chúa Nguyễn Phúc Tần đã ủy thác mọi công việc đánh chiếm Đàng Ngoài cho hai vị tướng là Nguyễn Hữu Tiến và Nguyễn Hữu Dật. Sau khi đi tuần biên giới về, Nguyễn Hữu Dật nắm rõ hết tình hình và tâu báo rằng bắt tướng tổng chỉ huy trấn thủ quân Trịnh ở Bắc Bố Chính là Trịnh Đào dễ như trở bàn tay. Sau đó là sự chuẩn bị về lương thực, lập đài hỏa hiệu, mọi thứ đều được chúa Nguyễn Phúc Tần đồng ý. 

Tháng 3 [13] cùng năm, Tiết chế Nguyễn Hữu Tiến và Đốc chiến Nguyễn Hữu Dật đã cho quân vượt sông Gianh ra đánh Đàng Ngoài, cuộc tấn công của chúa Nguyễn kéo dài hơn 5 năm và chiếm được bảy tám châu huyện của Nghệ An. 

Lúc đầu quân chúa Nguyễn đánh bất ngờ, cùng với những chiến thuật tấn công hợp lý nên liên tiếp thắng lớn bắt tướng của chúa Trịnh là Phạm Tất Đồng phải hàng, sau đó liên tiếp thúc quân đánh ra Bắc làm cho tướng Trịnh Đào cũng bị trúng đạn và phải cho quân lui về giữ xã An Trường (nay thuộc Nghệ An). Quân của chúa Nguyễn thu được rất nhiều voi, ngựa, chiến lợi phẩm và bắt được rất nhiều quan quân của chúa Trịnh, chúa Nguyễn làm chủ được dinh Hà Trung. Sau đó Nguyễn Hữu Dật còn làm kế ly dán để cho chúa Trịnh bắt giam Trịnh Đào và buộc Trịnh Đào phải bỏ mạng trên đường giải về Kinh.

Sang tháng 5, chúa Trịnh Tráng sai Trịnh Trượng làm Thống lãnh, Bồi tụng Nguyễn Văn Trạc và Cấp sự trung Nguyễn Tính làm Phó đốc thị, lãnh 18 tướng để thu phục dinh Hà Trung. Võ Văn Thiêm lãnh 50 chiến thuyền, đóng ở cửa biền Kỳ La. Về phía quân chúa Nguyễn sau những trận thắng liên tiếp, khí thế trong quân đang lên rất cao nhưng không vì thế mà các tướng Nguyễn Hữu Tiến và Nguyễn Hữu Dật thúc quân tấn công ngay khi đạo quân tiếp viện của chúa Trịnh đến. Sau khi nắm rõ hết tình hình về việc hành quân của chúa Trịnh, nhằm làm cho quân của chúa Trịnh chủ quan, quân của chúa Nguyễn giả vờ sợ rút về sông Gianh nhưng trước đó đã cho quân bộ do Trương Phúc Hùng mai phục ở Lũng Bông và quân thủy do Tôn Thất Tráng mai phục ở cửa Ròon.  

Sau một tháng kể từ khi đưa quân vào nhưng Trịnh Trượng vẫn không có động tĩnh gì, đến tháng 8 cùng năm chúa Nguyễn đã thúc quân đánh làm cho quân bộ chúa Trịnh phải bỏ chạy, thu được khí giới và voi ngựa rất nhiều. Về phía Quân thủy, tướng Vũ Văn Thiêm của chúa Trịnh cũng phải lùi chạy.

Sang tháng 10, chúa Trịnh Tráng sai con là Trịnh Ninh làm thống lãnh, Đào Quang Nhiêu làm đốc suất, Võ Văn Thiêm làm Đốc suất thủy quân vào để lấy lại những vùng đất đã mất vào tay chúa Nguyễn. Trước lực lượng hùng mạnh của quân chúa Trịnh, quân chúa Nguyễn tạm lui giữ dinh Hà Trung. Sang đến năm 1656 quân chúa Nguyễn bất ngờ thúc quân đánh quân chúa Trịnh, làm cho quân Vũ Văn Thiêm và Đào Quang Nhiêu phải bỏ chạy về trấn thủ Nghệ An.

Quân của chúa Nguyễn đã làm chủ được bảy tám châu huyện ở Nghệ An và đã cho bố trí chính quyền quản lý và tiến hành tuyển lính, thu thuế. Lúc này (1657), về phía Đàng Ngoài, chúa Trịnh Tráng chết, quan quân chúa Nguyễn bàn tính định lợi dụng thời cơ để đánh ra Trung đô nhưng chúa Nguyễn Phúc Tần nói rằng: “Đánh người lúc nguy khốn là bất vũ, thủ lợi khi người ta đau khổ là bất nhân. Các khanh nên hiểu ý ấy, hãy tạm đóng quân yên chỗ rồi sẽ mưu tính về sau”[14]. 

Sau khi chúa Trịnh Tạc lên nối ngôi, đã cho triệu em là Trịnh Tuyền [15] đang chống giữ quân của chúa Nguyễn ở Nghệ An về kinh và vu vào tội làm phản, bị hạ ngục rồi chết [16]. Sau đó, chúa Trịnh Tạc sai con mình là Trịnh Căn làm Thống lãnh để đánh lấy lại những vùng đất đã bị quân của chúa Nguyễn kiểm soát. 

Do lực lượng quân Đàng Ngoài vẫn còn rất hùng hậu nên đã nhanh chóng huy động đánh, buộc quân chúa Nguyễn phải bỏ những vùng đất kiểm soát trên đất Nghệ An. Sau khi chúa Nguyễn kiểm soát được bảy tám châu huyện trên đất Nghệ An, đã tiến hành áp thuế cao để nuôi quân làm cho dân oán thán. Cùng với việc đóng quân lâu ngày, làm cho quân sĩ nhớ nhà nên nhuệ khí chiến đấu của quân chúa Nguyễn cũng bị giảm sút. Vì vậy, khi quân của chúa Trịnh tiến đánh, quân của chúa Nguyễn bất lợi nhiều điều. Một bộ phận binh lính mộ ở Nghệ An hoặc bắn súng không đạn, hoặc múa gươm không chém, bỏ về mất quá nửa. Thuận Nghĩa không ngăn cản được, lui về giữ Nam Hà [17]. Đồng thời do mâu thuẫn giữa hai vị tướng Nguyễn Hữu Tiến và Nguyễn Hữu Dật làm cho công cuộc tiến ra Bắc đành phải gác lại và vẫn lấy sông Gianh làm nơi chia cắt giữa hai bên. 

6. Trận thứ sáu (1661-1662)

Sau khi bị quân chúa Nguyễn tấn công đánh lấy bảy tám châu huyện của Nghệ An, chúa Trịnh đã huy động các tướng tài, người thân tín đánh lấy lại. Sau đó huy động một cuộc tấn công vào Đàng Trong. Cũng giống như các cuộc tấn công lần trước, chúa Trịnh lần này đưa cả vua Lê đi theo nhằm tạo thêm tính chính thống cho cuộc Nam phạt.

Khác với các cuộc tấn công lần trước, lần này chúa Trịnh Tráng cho xuất quân đánh Đàng Trong vào tháng 12. Về việc này, Đại Nam thực lục tiền biên chép: “Mùa đông, tháng 12, Trịnh Tạc lại dẫn vua Lê đi đến Phù Lộ, sai Trịnh Căn đốc các quân chia làm ba đạo để xâm lấn, lấy Đào Quang Nhiêu làm Thống suất, Lê Thời Hiến, Hoàng Nghĩa Giao làm Đốc suất, Lê Sĩ Triệt, Trịnh Thời Tế làm Đốc thị. Thủy binh đóng ở cửa Nhật Lệ, bộ binh sang sông Gianh đóng ở thôn Phúc Tự, đối diện với lũy An Náu” [18].

Về phía Đàng Trong, cùng với lực lượng quân đồn trú tại chổ ở Quảng Bình đã chuẩn bị khí thế giao chiến, ở Chính dinh chúa Nguyễn đã điều động Công tử Hiệp Đức làm Nguyên soái tiến quân ra Quảng Bình để đối phó lại quân của chúa Trịnh. 

Với sự giúp sức của thời tiết ở Đàng Trong âm u, làm cho quân của chúa Trịnh không thể nào tiến quân được. Vì vậy, chúa Trịnh phải cho quân đóng giữ phía ngoài các thành lũy chúa Nguyễn, điều đó làm cho quân lính và tướng tá có ý trễ nải, không đề phòng. Chờ chỉ có thế, quân của chúa Nguyễn mở cuộc phản công làm cho quân chúa Trịnh trong giấc ngủ mơ màng bị đuổi đánh chạy dài. Tháng 2 năm 1662, chúa Trịnh dẫn vua Lê trở về lại Kinh đô.

7. Trận thứ bảy (năm 1672)

Đây là trận đánh, đánh dấu sự ngưng binh giữa hai bên trong một thời gian dài. Chiến cuộc lần này thêm một lần nữa khẳng định Đàng Ngoài đã bất lực trong việc vượt các thành lũy trên đất Quảng Bình, để rồi phải từ bỏ ý định của mình mà Alexandre de Rhodes đã chép rằng: “Công cuộc khôi phục Đàng Trong dĩ nhiên phải bỏ một cách nhục nhã” [19]. Choisy cũng viết rằng :“Đàng Ngoài đã nhiều lần tấn công mà chỉ rước lấy hổ thẹn” [20].

Tháng 6 năm 1672, chúa Trịnh Tạc cử con trưởng Trịnh Căn làm Nguyên soái thủy quân, Lê Thời Hiến làm Thống suất quân bộ, lãnh 10 vạn quân, còn tự mình cùng vua Lê dẫn đại binh đi sau tiếp ứng. Để phô trương thanh thế, chúa Trịnh đã tuyên bố tuyển chọn 18 vạn binh vào để chinh phạt Đàng Trong. Chúa Nguyễn có lực lượng do thám để biết được đó chỉ là con số phao lên nhằm gây thanh thế. Đổi lại, quân của chúa Nguyễn cũng đồn lên rằng đã tập hợp được 26 vạn quân, trong đó có 16 vạn tinh binh, 10 vạn hương binh [21]. Đây là con số nói ra để làm loạn quân chúa Trịnh: “nói là mười sáu vạn quân chỉ là nói hư trương mà thôi. Xin chúa Thượng cứ dương ngôn là giao cho thần tuyển thêm mười vạn quân… cứ nói phao lên như thế để lừa quân địch” [22]. Chúa Nguyễn Phúc Tần tự thống lãnh quân thủy bộ đóng ở trại Toàn Thắng, Công tử Hiệp Đức làm Nguyên soái ra chống cự với quân chúa Trịnh.

Trong cuộc tấn công vào Đàng Trong lần này, chúa Trịnh đã có những trợ thủ đắc lực từ các vũ khí của Hà Lan: “Người Hòa Lan cung cấp cho ông trái phá mà ông cho ném vào trại lính Đàng Trong” [23]. Điều này đã gây thiệt hại rất nhiều cho quân của chúa Nguyễn. Đến tháng 9, chúa Trịnh đã huy động 1.000 [24] chiến thuyền tập trung ở cửa Gianh và cửa biển Nhật lệ để tiếp ứng cho bộ binh, uy thế rất mạnh mẽ.

Chúa Trịnh mở những cuộc tấn công mạnh mẽ nhằm vượt các thành lũy của chúa Nguyễn trên đất Quảng Bình, có những lúc tưởng chừng như đã thành công khi có những đoạn bức tường lũy Trấn Ninh bị vỡ, “trong một ngày mà lũy sắp bị hạ ba bốn lần” [25], vỡ hơn 30 trượng [26]. Về phía chúa Nguyễn đã cử Nguyễn Hữu Dật lúc đó đang giữ lũy Sa Phụ nhanh chống đến cứu viện. Ngay khi đến nơi Nguyễn Hữu Dật đã cho quân lấy rơm khô đốt lửa làm cho ban đêm sáng như ban ngày, làm cho quân chúa Trịnh sợ có âm mưu gì nên không dám tiếp tục công thành. Nguyễn Hữu Dật tiếp đó đã huy động quân nhanh chống sửa chữa lại những chỗ vỡ của lũy Trấn Ninh. Quân hai bên tiếp tục đánh nhau, quân Đàng Ngoài thì cố gắng vượt lũy, quân Đàng Trong cứ thế kháng cự, làm cho xác chết của binh lính giữa hai bên chất cao như núi ở các chiến lũy. Chúa Trịnh đã cho quân sĩ uống rượu cấp độ mạnh để công thành nhưng cũng đành bất lực. Đánh mấy tháng liên tục không sao vượt được lũy Trấn Ninh, cùng với thời tiết rét buốt nên chúa Trịnh Tạc cùng vua Lê rút quân để Lê Thời Hiến lại tiếp tục công lũy. Nhưng trước những mưu kế của Hiệp Đức Nguyên soái và Nguyễn Hữu Dật làm cho Lê Thời Hiến không dám tiến quân, cộng việc Trịnh Căn bị ốm nặng ở cửa Gianh, buộc Lê Thời Hiến phải rút quân. Một lần nữa quân của chúa Trịnh đành phải rút quân về, chấp nhận lấy sông Gianh làm ranh giới giữa hai bên.

Đây là cuộc chiến giữa những người cùng chung dòng máu, cùng một dân tộc, lại diễn ra trong nhiều năm nên nhiều lúc quân lính hai bên không thật sự đánh để giết hại nhau. Nguyễn Khoa Chiêm đã chép lại những câu chuyện kể về sự giúp đỡ của quân chúa Trịnh đối với quân chúa Nguyễn: “Chúng tôi [quân chúa Trịnh] và anh em [quân chúa Nguyễn] đều là người cả, sao nỡ tàn hại lẫn nhau. Chỉ vì nhà chúa tranh chấp, anh em ta mới chịu chết oan. Tôi bảo anh em, nếu thấy trái phá bay vào người ở xa thì chạy nấp cho nhanh, người ở gần thì nằm sát xuống mặt đất mà tránh thì được vô sự. Quân Nam nghe lời cứ theo cách ấy tránh đạn” [27]. Tiếp đó quân của chúa Trịnh lại cho thả diều giấy làm cháy nhà, cháy người, quân chúa Nguyễn không biết dập lửa nên quân Bắc cũng nói vọng vào: “Diều giấy có mang vật dẫn hỏa bằng dầu rái, nếu rơi trúng người thì xúc cát hất vào mà dập, lửa sẽ không cháy lan nữa. Còn đổ nước lửa cháy loan ra sẽ chết. Quân Nam nghe lời làm đúng như thế, quả nhiên được vô sự” [28].

Bản đồ vị trí của các lũy trên đất Quảng Bình do Cadière vẽ năm 1906 (L.Cadière (1906), Le mur de Đồng Hới in Bull. de L’Ecole Française d’Ẽtrême-Orient VI)

Kết quả của chiến tranh Trịnh - Nguyễn sau gần 50 năm chinh chiến là bất phân thắng bại, lấy sông Gianh làm ranh giới. Tuy vậy, xét về mục đích thì chúa Nguyễn đã thắng khi giữ vững được phần lãnh thổ Đàng Trong của mình, không những thế còn mở rộng đất đai về phía Nam và phía Đông ra tới các hải đảo. Nhưng duy trong các trận đánh đó, một lần chúa Nguyễn đã không đạt được mục đích của mình là trận đánh lần thứ năm (1655-1661). Đây là cuộc chiến mà chúa Nguyễn Phúc Tần mở cuộc tấn công ra Đàng Ngoài nhằm khôi phục Trung đô nhưng ý định bất thành.

Cuộc chiến mặc dù đã kết thúc nhưng trong dân gian vẫn luôn lưu truyền lại những câu ca dao cho thấy cuộc nội chiến này đã để lại nhiều dấu ấn trong người dân Việt:

“Thứ nhất sợ Lũy Thầy
Thứ nhì sợ đầm lầy Võ Xá”.

Hay

“Có tài vượt nổi sông Gianh
Dẫu thêm hai cánh Trường thành khó bay!”

Hay

“Khôn ngoan qua cửa sông La
Đố ai có cánh vượt qua lũy Thầy !”

8. Trận chiến năm 1774-1775

Việc ngưng binh của hai bên kéo dài hơn cả 100 năm (1672-1774), trong thời gian đó cả Đàng Trong và Đàng Ngoài đều có ý định đánh chiếm để hoàn thành các ý đồ của mình, nhưng do đúc rút từ sự thiệt hại của các lần chiến trận trước đây, cùng với cả hai bên đang lúc thịnh nên còn đang nằm ở trong tư thế phòng thủ nhau, đợi thời cơ. Đến năm 1774, lúc này Đàng Trong đang nằm trong khủng hoảng trầm trọng về mọi mặt, lòng dân oán thán, đói khổ, lầm than, lòng quân thì rối loạn từ tướng cho đến binh lính do việc mua quan bán tước của quyền thần Trương Phúc Loan gây nên. Cùng với đó là phải đối phó với cuộc khởi nghĩa của Tây Sơn do Nguyễn Nhạc chỉ huy đang diễn ra ở vùng núi Bình Định và đã đánh ra tới Quảng Nam. Gần như mọi nhân tài còn sót lại trong việc binh được điều động vào Quảng Nam để tham gia chiến trận, còn về mặt trận phía Bắc thì để lại những đội quân già yếu, không còn nhuệ khí chiến đấu, từ tướng lĩnh cho đến quân lính. 

Việc suy yếu của chúa Nguyễn ở Đàng Trong cùng với cuộc khởi nghĩa của Tây Sơn đã được bẩm báo với chúa Trịnh Sâm. Nắm lấy thời cơ trăm năm có một (1672-1774), chúa Trịnh cho quân tiến đánh Đàng Trong. Chúa Trịnh sai Hoàng Ngũ Phúc làm thống tướng quân, Bùi Thế Đạt làm phó tướng tiến đánh Đàng Trong. Tháng 11 năm 1774, chúa Trịnh tự mình đem quân vào Nghệ An để chi viện cho Hoàng Ngủ Phúc. Trước khi tiến đánh Đàng Trong, Hoàng Ngủ Phúc truyền hịch nói rằng: “Trương Phúc Loan che lấp tai mắt thiên hạ, hà ngược trăm họ, lần này cất quân chỉ là để trừ một tên Loan, thực không có ý xâm đoạt” [29]. Quân của Đàng Ngoài lúc này tiến đánh Đàng Trong như đi vào chỗ “không người”, các thành lũy trên đất Quảng Bình trước đây là nỗi khiếp sợ của quân Đàng Ngoài thì tới nay chỉ như những bức “thành trống”, quân đội canh gác ở các chiến lũy kháng cự một cách yếu ớt, tất cả đều chưa đánh đã ra hàng. Quân Đàng Ngoài nhanh chống vượt qua các phòng tuyến trên đất Quảng Bình, rồi vượt qua Cựu dinh cũng không mấy khó khăn, chỉ đến khi tiến gần sát dinh Phú Xuân (Chính dinh) mới bắt đầu gặp sự kháng cự mạnh mẽ của quân đội Đàng Trong, nhưng sự kháng cự muộn màng đó cũng không ngăn được quân Đàng Ngoài chiếm Phú Xuân. Chỉ trong vòng hơn một tháng kể từ khi xuất quân, Đàng Ngoài đã chiếm được Phú Xuân. Lúc này chúa Nguyễn Phúc Thuần đã bỏ chạy, quan lại tất cả đều đầu hàng “ngày mồng 3 tháng giêng năm 1775, vào thành Phú Xuân. Người họ Nguyễn là quận Chiêm, quận Thặng hơn trăm người đều quy thuận, văn võ tướng lại đều đón hàng” [30]. 

Chú thích:
[1], [5]. Trước đó đã có sự đụng độ không chính thức giữa quân Lê-Trịnh và chúa Nguyễn, nhưng đã có bàn tay của Trịnh Kiểm điều khiển “Trước là Mỹ Lương cùng em là Văn Lang và Nghĩa Sơn đều tiến thóc được làm quan, chuyên việc thu tô thuế có công. Nhà Lê phong Mỹ Lương làm tham đốc, Văn Lan, Nghĩa Sơn làm thự vệ. Trịnh Kiểm nhân mật sai họ đánh úp dinh Vũ Xương, hẹn nếu thành công sẽ trọng thưởng. Tới đấy, Mỹ Lương sai Văn Lang và Nghĩa Sơn đem quân phục ở huyện Minh Linh rồi tự mình dẫn quân lẻn theo đường núi đến chỗ Cầu Ngói ở Hải Lăng mai phục, định ngày giáp đánh. (có thuyết nói khi binh thuyền Mạc cướp Nghệ An thì Thuận Hóa xao xuyến, bọn Mỹ Lương mưu đánh úp Vũ Xương để hàng Mạc). Chúa biết được mưu ấy, liền sai phó tướng Trương Trà (bấy giờ xưng là Trà quận công) đánh Nghĩa Sơn, và tự đem quân ngầm đến Cầu Ngói đánh úp Mỹ Lương và đốt trại. Mỹ Lương trốn chạy, đuổi chém được. Trà tiến quân đến xã Phúc Thị, đánh nhau với giặc, bị Nghĩa Sơn bắn chết. Vợ Trà là Trần thị (người xã Diêm Trường) nghe tin nổi giận, mặc quần áo đàn ông thúc quân đánh, bắn chết Nghĩa Sơn tại trận. Quân Văn Lan thua, trốn về với Trịnh. [Thế là] dẹp hết đảng giặc. Chúa đem quân về. Phong Trần thị làm quận phu nhân. (Quốc sử quán triều Nguyễn (2007), Đại Nam thực lục, t.1, Nxb Giáo dục, tr.29-30.)
[2], [20], [23]. Cadière, L. (1929), Những người châu Âu đã thấy Huế xưa: mục sư De Choisy, tạp chí BAVH, bản dịch năm 2003, Nxb Thuận Hóa, Huế, tr.260; tr.260; tr.262.
[3] Không kể lần đánh giữa hai bên năm 1774 khi chính quyền Lê-Trịnh huy động vào tấn công Thuận Hóa và đã đánh cho chúa Nguyễn Phúc Thuần phải chạy vào Nam và cuối cùng bị khởi nghĩa Tây Sơn bắt được và bị giết.
[4] Nguyễn Khoa Chiêm (1986), Trịnh Nguyễn diễn chí, Sở Văn hóa Thông tin Bình Trị Thiên, t.1, Huế, tr.194.
[5], [7], [8], [10], [16], [18], [24], [25], [26], [29] Quốc sử quán triều Nguyễn (2007), Đại Nam thực lục, t.1, Nxb Giáo dục, tr.42-43; tr.57; tr.58; tr .63; tr.70; tr.85; tr.87; tr.87; tr.180.
 [6]. Việt sử thông giám gọi là Trịnh Lệ.
[9], [13], [17]. Lê Quý Đôn (1964), Ph ủ biên tạp lục, Nxb Khoa học xã hội, tr.47; tr.49; tr.; tr.78
[11] Sự việc bất thành Ký lục Hồ cùng còn là Tú Phượng bị chúa Trịnh chém đầu: “Trịnh Tạc cả giận hạ lệnh đem cha con Ký lục Hồ chém ngay tại chỗ rồi đem bêu đầu ở chợ để thị uy với dân chúng. Sau đó Trịnh Tạc lại xuống lệnh bắt giết cả ba họ nhà Ký lục Hồ, già trẻ lớn bé đều  không tha một ai”. Nguyễn Khoa Chiêm (2016), Nam triều công nghiệp diễn chí, Nxb Khoa học xã hội, tr.379. Các tướng của Đàng Trong là Nguyễn Hữu Tiến và Nguyễn Hữu Dật nghe tin ấy, thương tiếc không nguôi, lập đàn để tế [Quốc sử quán triều Nguyễn (2007), Đại Nam thực lục, Sđd, tr.74]
[12], [14], [21], [26], [27], [28]. Nguyễn Khoa Chiêm (2016), Nam triều công nghiệp diễn chí, Nxb Khoa học xã hội, tr.255-256; tr.319; tr.466; tr.466; tr.482; tr.489
[15]. Ninh quốc công, nên Đại Nam thực lục chép là Trịnh Ninh.
[19]. Alexandre de Rhodes (1994), Lịch sử vương quốc Đàng Ngoài, Hồng Nhuệ dịch, Ủy ban Đoàn kết Công giáo thành phố Hồ Chí Minh, tr.17.
[30]. Lê Quý Đôn (2017), Phủ biên tạp lục, Nxb Đà Nẵng, tr.54.

Đoàn Anh Thái

Tin liên quan

Vụ binh biến tại kinh thành Huế - 140 năm nhìn lại
Lịch sử
Vụ binh biến tại kinh thành Huế - 140 năm nhì...

Sau khi vua Tự Đức băng hà, triều Nguyễn rơi vào khủng hoảng nghiêm trọng về vấn đề k...

Loạt ảnh hiếm trăm tuổi về sông An Cựu ở Cố đô Huế xưa
Lịch sử
Loạt ảnh hiếm trăm tuổi về sông An Cựu ở Cố đ...

Loạt ảnh tư liệu quý về sông An Cựu thập niên 1920 hay còn gọi là sông Phủ Cam, Lợi N...

Khách Tây tò mò đi tìm 'hình tròn kỳ lạ' trên bản đồ Huế: Địa điểm thuộc quần thể di tích nhưng ít ai biết
Lịch sử
Khách Tây tò mò đi tìm 'hình tròn kỳ lạ' trên...

Cũng được xem là một địa điểm thuộc quần thể di tích Cố đô Huế, song ít ai biết tới n...

Loạt ảnh 'quý như vàng' ít người biết về dung nhan vợ vua Đồng Khánh
Lịch sử
Loạt ảnh 'quý như vàng' ít người biết về dung...

Phụ Thiên Thuần Hoàng Hậu - Thánh Cung Hoàng Thái Hậu Nguyễn Hữu Thị Nhàn (1870-1935)...