Tài khoản
Cổng ngõ (hay cửa) được xem là bộ mặt của các công trình kiến trúc, với chức năng chính là nơi ra vào của cư dân sinh sống trong vùng, trong khu vực, hoặc trong mỗi một công trình, nó còn có chức năng phòng vệ, ngăn ngừa sự xâm phạm của các thế lực bên ngoài. Theo quan niệm của người xưa, cổng ngõ là nơi ngự trị của thần linh để bảo vệ và che chở cho chủ nhân của công trình.
Về tổng thể kinh thành Huế gồm có 3 vòng thành. Mỗi vòng thành đều có chức năng riêng, tất cả đều hướng về phía Nam (lệch Đông)
Tên gọi của 3 vòng thành ấy theo thứ tự ngoài lớn vào phía trong nhỏ như bên dưới:
- Kinh thành: vòng ngoài cùng gồm 13 cửa ra vào (11 cửa đường bộ và 2 cửa đường thủy)
- Hoàng thành: vòng thành giữa gồm 4 cửa ra vào
- Tử cấm thành: vòng thành trong cùng. Lúc mới xây dựng thì chỉ có 7 cửa. Về sau trổ thêm 4 cửa.
Kinh thành Huế với 13 cửa ra vào đều có tên chữ Hán khắc ở mặt trước và sau cửa. Đây là tên chính thức của Nhà Nguyễn đặt. Còn người dân thì vẫn hay gọi tên theo thói quen liên hệ tới 1 cái gì đó cho dễ nhớ.
Đối với cửa đường bộ, 2 cửa Chánh Tây và Trấn Bình Môn là tên gọi chính thức do triều Nguyễn đặt, còn 9 cửa còn lại có tên gọi theo dân gian. Mặt thành hướng Nam gồm 4 cửa: trong đó 2 cửa sát kỳ đài gọi là NAM VƯƠNG MÔN, 2 cửa này chỉ dành cho hoàng gia đi. Tên dân gian là Cửa Ngăn và Cửa Sập.
Cửa Chánh Tây nằm ở phía Tây Kinh Thành, trên đường Thái Phiên, TP Huế. Phần cửa vòm được xây dựng vào năm 1809, dưới thời vua Gia Long, vọng lầu bên trên được xây dựng năm 1829, dưới thời vua Minh Mạng.Trong chiến sự năm 1968, nơi đây từng là cửa ngõ giao tranh ác liệt, cửa bị tàn phá hoàn toàn phần vọng lầu phía trên, sau đó bị cấm đi lại. Nay cửa đã được tu sửa.
Còn gọi là cửa Tây Nam vì nằm bên phải (hữu) của Kinh thành. Cửa Hữu, có tên chữ là Tây Nam Môn, nằm ở phía Tây Nam của Kinh Thành, ở đầu đường Yết Kiêu. Phần cửa vòm, được xây dựng vào năm 1809, dưới thời vua Gia Long, vọng lâu được xây dựng năm 1829 thời Minh Mạng. Đêm mồng 05/7/1885, vua Hàm Nghi đã xuất bôn từ cửa này ra khỏi Kinh Thành, để ban hịch Cần Vương. Chiến sự năm 1968 đã làm sập vọng lâu và vòm cửa.
Còn gọi là cửa Chánh Nam (nay ở đường Nguyễn Trãi), thời vua Gia Long có 1 kho chứa binh khí, có thợ làm đồ dùng cho nhà vua gọi là Đồ Gia, dịch sang tiếng Việt là Nhà Đồ. Cửa Chánh Nam nằm gần Nhà Đồ nên dân gian gọi là Cửa Nhà Đồ. Tên gọi này đến nay vẫn còn dùng. Cửa này nay chỉ cho phép lưu thông một chiều từ phía đường Nguyễn Trãi ra đường Lê Duẩn.
Còn gọi là cửa Quảng Đức, cửa này bị sập năm 1953 do lụt. Trước năm 1945, cửa này cũng dành cho vua và hoàng gia đi nên còn cửa Ngăn (cửa ngăn Trên, còn cửa Ngăn hiện này thì gọi là cửa Ngăn dưới). Năm 1998, cửa Sập được trùng tu. Hiện tại thì đa phần người dân sử dụng từ cửa Quảng Đức, tên cửa Sập chỉ vài người lớn tuổi dùng, đặc biệt là người ở gần khu vực cửa Sập.
Còn gọi là Thể Nhân Môn, dành cho vua và hoàng gia ra vào, mỗi lần vua và hoàng gia ra vào kinh thành thì triều đình cho lính ra ngăn con đường trước mặt kinh thành, không cho ai đi qua lại. Nên gọi là Cửa Ngăn.
Còn gọi là cửa Đông Nam nằm gần viện Thượng Tứ (có nhiệm vụ chuyên môn trông coi việc nuôi ngựa để kéo xe cho vua), đường Đinh Tiên Hoàng. Cửa Thượng Tứ có tên chữ là Đông Nam Môn, nằm ở góc Đông Nam Kinh Thành, nay chỉ lưu thông một chiều từ đường Trần Hưng Đạo đi vào đường Đinh Tiên Hoàng.
Còn gọi là cửa Chánh Đông nằm trên đường Mai Thúc Loan. Thời xưa tại đây có chợ tên là Quy Giả, sau này đổi tên thành chợ Đông Hoa. Về sau vì phạm úy chữ HOA nên tên chợ được đổi thành Chợ Đông Gia, nhưng vì chữ GIA khó đọc nên người dân đọc thành Đông Ba. Sau này chợ được dời ra vị trí hiện tại như bây giờ.
Còn gọi là cửa Chánh Bắc vì tọa lạc ở mặt sau của Kinh thành Huế. Cửa Hậu nằm cuối đường Đinh Tiên Hoàng, nhìn ra đường Tăng Bạt Hổ. Phần cửa vòm được xây dựng năm 1809 dưới thời Gia Long. Vọng lầu được xây dựng vào năm 1831 dưới thời vua Minh Mạng.
Cửa An Hoà có tên khác là Tây Bắc Môn, cửa nằm ở góc Tây Bắc của Kinh Thành, nối từ đường Nguyễn Trãi ra thẳng đường Tăng Bạt Hổ. Tên dân gian thường gọi là cửa An Hòa vì mặt trước có làng An Hòa và chợ An Hòa. Phần vòm cửa được xây dựng năm 1809, dưới thời vua Gia Long, vọng lâu được xây dựng vào năm 1831 dưới thời vua Minh Mạng.
Còn gọi là cửa Đông Bắc - Đường Kẻ Trài, phía trước cửa này bên kia sông đào Đông Ba có xóm mang tên Kẻ Trài, hiện cửa này dẫn vào khu quân đội. Cửa này thì nhiều người ở Huế không biết, đặc biệt là người trẻ. Lý do chính là không mấy người được đi qua cổng này.
Đây là cửa từ Kinh Thành ra Trấn Bình Đài, một thành phụ nằm ở gốc Đông Bắc Kinh Thành. Người dân hay gọi là Mang Cá nhỏ. Để tới được cửa này thì đi vào đường Mang Cá Nhỏ, chạy hết đường sau đó chạy theo đường mòn bên tay trái là thấy.
Trấn Bình môn thuộc vòng tường thành của Kinh thành không phải là cửa thông ra ngoài thành mà là thông đến Trấn Bình đài là pháo đài phòng thủ của Kinh thành. Cửa này đươc trổ ra ở giữa đoạn thành nối hai pháo đài Bắc Định và Đông Bình (của Kinh thành) lại với nhau. Ngay trước mặt cửa là một chiếc cầu xây bằng đá và gạch bắc qua hào, dùng để nối liền mạch giao thông giữa hai địa phận của thành chính và thành phụ.
Cây cầu cổ đầu tiên trên sông Ngự Hà là cầu Lương Y, còn gọi là cống Đông Thành Thủy Quan. Cầu nằm trên đường Xuân 68, trục đường chạy dọc theo mặt Đông của Kinh thành Huế.
Còn gọi là cống Thủy Quan, Tây thành Thủy Quan là cửa đường thủy thông giữa sông Ngự Hà trong kinh thành với sông đào Kẻ Vạn khu vực Kim Long. Phía bên ngoài thành là cầu Thủy Quan nằm trên đường Lê Duẩn (QL1A đi qua Thành phố).
Tin liên quan
Trong nhịp sống hiện đại, ngày càng nhiều bạn trẻ lựa chọn du lịch một mình như một c...
Tiếp nối chuỗi hoạt động liên kết địa phương, ngành du lịch 03 tỉnh thành Quảng Trị, ...
Khi hè về, nhiều người thường nghĩ đến biển xanh cát trắng để tránh cái oi nồng phố t...
Sông Hương - biểu tượng thơ mộng và hiền hòa của xứ Huế từ bao đời nay đã trở thành n...